7 giải pháp nâng cao năng suất lao động của Thủ tướng Chính phủ

20/11/2014 08:13 AM


Năng suất lao động là chỉ tiêu quan trọng đánh giá trình độ phát triển của nền kinh tế. Để nâng cao năng suất lao động thời gian tới, Chính phủ sẽ thực hiện đồng bộ các nhiệm vụ cả cấp thiết trước mắt cũng như cơ bản lâu dài mà theo Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng, trong đó tập trung vào 7 giải pháp.

Theo Báo cáo công bố ngày 19/8/2014 của ILO và ADB về năng suất lao động của ASEAN, năng suất lao động của Việt Nam giai đoạn 2007 - 2013 đã có bước thu hẹp khoảng cách với các nước trong khu vực. Năm 2007 năng suất lao động của các nước ASEAN gấp 2,12 lần so với Việt Nam (9.173 USD/4.322 USD tính theo sức mua tương đương - PPP), đến năm 2013 khoảng cách này đã thu hẹp còn 1,98 lần (10.812 USD/5.440 USD). Trong đó, so với Singapore giảm từ 21,3 lần xuống còn 18; so với Thái Lan từ 3 lần xuống còn 2,7; so với Philippines từ 2 lần xuống còn 1,8. Báo cáo giải trình trước Quốc hội tại kỳ họp thứ 8, QH khóa XIII chiều 19/11, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng cho rằng, báo cáo nêu trên cho thấy năng suất lao động của Việt Nam tuy có bước cải thiện nhưng vẫn còn rất thấp trong ASEAN. Để nâng cao năng suất lao động, phải thực hiện hiệu quả các đột phá chiến lược, đẩy mạnh tái cơ cấu tổng thể nền kinh tế gắn với chuyển đổi mô hình tăng trưởng theo hướng phát triển hài hòa giữa các ngành, vùng, khuyến khích mạnh các ngành kinh tế có công nghệ, giá trị gia tăng cao, tăng nhanh tỷ trọng công nghiệp và dịch vụ, nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế và bảo đảm tốc độ tăng trưởng Tổng sản phẩm trong nước (GDP). Thời gian tới, Chính phủ sẽ thực hiện đồng bộ các nhiệm vụ cả cấp thiết trước mắt cũng như cơ bản lâu dài. Trong đó, tập trung vào 7 giải pháp:

Thứ nhất, đẩy nhanh tái cơ cấu nông nghiệp gắn với xây dựng nông thôn mới. Có cơ chế chính sách khuyến khích ứng dụng mạnh khoa học công nghệ, nhất là công nghệ sinh học, công nghệ thông tin và phát triển mạnh công nghiệp phục vụ nông nghiệp. Tăng nhanh các sản phẩm nông nghiệp có lợi thế, có giá trị gia tăng và sức cạnh tranh cao. Thu hút mạnh doanh nghiệp đầu tư vào địa bàn nông thôn để chuyển nhanh lao động nông nghiệp sang công nghiệp, dịch vụ và thúc đẩy phát triển sản xuất, nâng cao năng suất lao động nông nghiệp. Phát triển các hình thức hợp tác liên kết đa dạng, phù hợp, hình thành chuỗi giá trị từ sản xuất, chế biến đến tiêu thụ sản phẩm.

Thứ hai, hiện đại hóa công nghệ, đẩy mạnh cơ khí hóa, tự động hóa, tin học hóa trong các doanh nghiệp. Giảm chi phí sản xuất, nâng cao chất lượng sản phẩm. Phát triển nhanh công nghiệp hỗ trợ.

Thứ ba, huy động các nguồn lực trong và ngoài nước để đầu tư phát triển nhanh hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội, nhất là hạ tầng giao thông đồng bộ cả đường bộ, đường sắt, đường hàng không, đường biển, đường sông.

Thứ tư, phát triển mạnh và toàn diện nguồn nhân lực. Triển khai thực hiện hiệu quả các giải pháp theo tinh thần Nghị quyết của Trung ương về giáo dục và đào tạo. Chú trọng chất lượng đào tạo đại học, nhất là đào tạo quản trị theo các chương trình quốc tế. Đẩy nhanh đào tạo nghề chất lượng cao. Đổi mới phương thức và nâng cao hiệu quả đào tạo nghề theo cơ chế thị trường. Khuyến khích doanh nghiệp tự đào tạo nghề cho người lao động và hợp tác với cơ sở đào tạo nghề. Nâng cao hiệu quả quản lý, sử dụng nguồn nhân lực và kỷ luật lao động.

Thứ năm, rà soát, hoàn thiện cơ chế chính sách, tiếp tục thực hiện Nghị quyết Trung ương và Chiến lược phát triển khoa học công nghệ. Thực hiện hiệu quả các chương trình quốc gia về đổi mới công nghệ, phát triển công nghệ cao và sản phẩm quốc gia. Thực hiện hiệu quả việc bảo hộ sở hữu trí tuệ. Có chính sách thuế, tín dụng ưu đãi để khuyến khích và hỗ trợ doanh nghiệp đổi mới công nghệ, sử dụng công nghệ cao và nghiên cứu phát triển. Thu hút mạnh các nhà đầu tư trong và ngoài nước đầu tư sản xuất sản phẩm công nghệ cao.

Thứ sáu, thực hiện nhất quán cơ chế thị trường trong phân bổ, sử dụng nguồn lực, nhất là vốn, lao động, tài nguyên, đất đai, khoáng sản, rừng... Đẩy nhanh tái cơ cấu để nâng cao hiệu quả hoạt động doanh nghiệp nhà nước. Tạo mọi điều kiện thuận lợi để phát triển mạnh kinh tế tư nhân.

Thứ bảy, chủ động hội nhập quốc tế, tập trung khai thác hiệu quả các Hiệp định, cam kết thương mại đã có và tích cực đàm phán, ký kết các Hiệp định thương mại tự do thế hệ mới. Mở rộng thị trường, tranh thủ các nguồn lực về vốn, công nghệ, kỹ năng quản lý… từ bên ngoài, thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế, nâng cao năng suất lao động và sức cạnh tranh.

Thủ tướng nhấn mạnh, thực hiện đồng bộ, hiệu quả các giải pháp nêu trên, đặc biệt là hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và phát triển mạnh kinh tế tư nhân - coi đây là động lực, là giải pháp chủ yếu - để khẩn trương cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh, nâng cao năng suất lao động, năng lực cạnh tranh, phát triển nhanh và bền vững, thu hẹp khoảng cách phát triển với các nước trong khu vực.

Việc người Việt làm được thì không để nước ngoài làm

Chốt phiên chất vấn Bộ trưởng LĐTB&XH chiều 19/11, Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Sinh Hùng nhấn mạnh: “Những công việc lao động trong nước có thể làm được thì không để lao động nước ngoài vào làm. Lao động chuyên nghiệp, thường xuyên, lâu dài phải là người Việt Nam“. Chủ tịch QH yêu nêu rõ, Quốc hội yêu cầu Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội quản lý chặt chẽ người lao động nước ngoài đến Việt Nam, vừa tạo cơ chế thuận lợi nhưng phải chặt chẽ, đúng quy định, phù hợp với yêu cầu, ưu tiên giải quyết việc làm trong nước. Đồng thời, cần hạn chế tối đa tình trạng chậm đóng bảo hiểm và nợ bảo hiểm. Những vi phạm trong lĩnh vực này bộ cần kiến nghị xử lý kiên quyết.

Trước đó, trả lời chất vấn thực trạng lao động nước ngoài vào Việt Nam, Bộ trưởng LĐTB&XH Phạm Thị Hải Chuyền cho biết: Trong 78.000 người nước ngoài vào Việt Nam làm việc, có nhiều lao động phổ thông là người Trung Quốc: “Chúng ta cũng phải giữ một nguyên tắc là chúng ta có nhiều lao động, chỉ đồng ý cho lao động chuyên môn, kỹ thuật vào mà không có, hoặc các chuyên gia mà chúng ta chưa đáp ứng thôi”. Gửi tới Bộ trưởng mối quan tâm lo ngại của cử tri, đặc biệt là cử tri trẻ, ĐB Đỗ Thị Hoàng (Quảng Ninh) cho biết: Trong khi hàng trăm ngàn doanh nghiệp trong nước bị phá sản, dừng hoạt động, làm cho người lao động mất việc; hàng trăm ngàn sinh viên tốt nghiệp ra trường không tìm được việc làm, lại có tình trạng lao động nước ngoài không phép tiếp tục gia tăng. Đáng chú ý là tỷ lệ người lao động không có trình độ chuyên môn, kỹ thuật cao, có cả những trường hợp vi phạm pháp luật của nước sở tại nhập cảnh vào Việt Nam theo nhiều con đường khác nhau, kể cả đường mòn lối mở, chưa quản lý được.

Bộ trưởng Phạm Thị Hải Chuyền luận giải, Chính phủ có quy định rất rõ đối tượng được vào lao động ở Việt Nam là những người có trình độ chuyên môn, kỹ thuật phù hợp yêu cầu công việc. Nhưng thực chất có lao động không có chuyên môn nghiệp vụ nhưng vẫn có một số doanh nghiệp sử dụng được. Số này phần đông là họ đi theo con đường du lịch và họ chỉ tham gia được giai đoạn đầu, tức là giai đoạn đầu tư xây dựng, phần đông là lao động Trung Quốc. “Trong báo cáo gửi đại biểu Quốc hội đã nêu rõ, tổng số lao động nước ngoài vào Việt Nam là 78.000, phần đông là lao động kỹ thuật, còn lao động không có chuyên môn phần đông số ấy là của Trung Quốc. Chúng ta cũng phải giữ một nguyên tắc là chúng ta có nhiều lao động, chỉ đồng ý cho lao động chuyên môn, kỹ thuật vào mà không có, hoặc các chuyên gia mà chúng ta chưa đáp ứng thôi” – Bà Chuyền nhấn mạnh.

Về tình trạng để người lao động vào Việt Nam trái quy định, Bộ trưởng Chuyền giải thích, Bộ LĐTB&XH đã phối hợp với ngành công an để thực hiện việc kiểm tra các đối tượng này và phát hiện những đối tượng khai gian để xử lý, trục xuất theo đúng theo đúng quy định. Việc người lao động đó có vào được hay không thì ngành công an thực hiện thủ tục xuất, nhập cảnh. Ngoài ra có trách nhiệm của chính quyền địa phương quyết định cho phép lao động ấy có được vào địa phương của mình trên cơ sở các dự án cụ thể tại địa phương hay không. Đồng thời phải quản lý trực tiếp những đối tượng lao động này, nhất là quản lý tạm vắng, tạm trú.

Theo Chinhphu.vn, ĐCSVN