Từ cánh rừng năm ấy

22/12/2022 09:18 AM


Đó là cánh rừng mang tên vị anh hùng dân tộc: Trần Hưng Đạo, trong cái rét căm căm của núi rừng Việt Bắc ngày 22/12/1944, Đội Tuyên truyền giải phóng quân Việt Nam gồm 34 chiến sĩ đã được thành lập với sự chỉ huy của Đại tướng Võ Nguyên Giáp trang bị vũ khí thô sơ, có người còn đi chân đất. Chỉ sau mấy ngày, hai trận thắng giòn giã hạ đồn Phay Khắt và Nà Ngần đã khẳng định đội tiền thân của quân đội ta thực hiện tốt lời căn dặn của Bác Hồ kính yêu: Trận đầu phải quyết thắng! 78 năm đã trôi qua, các chiến sĩ thời bấy giờ đã thành người thiên cổ nhưng tinh thần và ý chí của họ vẫn luôn bừng sáng và lưu danh mãi mãi với lịch sử, trong kí ức của dân tộc. Cánh rừng năm ấy bây giờ lá vẫn xanh tươi, hàng cây cổ thụ hơn, suối vẫn rì rào như nhịp khúc quân hành, gió vẫn phần phật bay lá cờ đỏ sao vàng ngày ấy; âm vang của cánh rừng vẫn vọng lại 10 lời thề danh dự của người lính hết lòng hết dạ phục vụ Tổ quốc, phục vụ Nhân dân. 
 
Tranh Minh họa. Nguồn: qdnd.vn
Tranh Minh họa. Nguồn: qdnd.vn
 
Từ cánh rừng năm ấy, quân đội ta đã trưởng thành lớn mạnh không ngừng, được trang bị các vũ khí tối tân và hiện đại. Từ một trung đội, nay đã thành các sư đoàn, quân đoàn hùng mạnh. Từ bộ binh thô sơ nay đã có thêm những binh chủng hợp thành, hợp đồng tác chiến mới: Pháo binh, xe tăng, không quân, hải quân... Từ trên bộ bây giờ vươn ra biển khơi bảo vệ các hòn đảo xa xôi; từ trên mặt đất nay làm chủ bầu trời thân yêu Tổ quốc. Từ cánh rừng năm ấy, từ đầu đội mũ nồi, mũ phớt các loại mũ khác nhau đến mũ nan bọc vải thời chống Pháp như nhà thơ Tố Hữu đã ngợi ca: “Quân đi điệp điệp trùng trùng/ Ánh sao đầu súng bạn cùng mũ nan”. Và trong kháng chiến chống Mỹ là hình ảnh mũ tai bèo lá sen: “Chẳng làm đau một chiếc lá trên cành/ Sáng trên đầu như một mảnh trời xanh/ Mà xông xáo mà tung hoành ngang dọc” (Tố Hữu). Và bây giờ là những chiếc mũ đồng, mũ sắt thật oai phong lẫm liệt nhưng tất cả đều mang khuôn mặt người chiến sĩ Việt Nam mà nhà thơ Chính Hữu đã khái quát hình ảnh đêm đứng gác: “Đầu súng trăng treo”. Họ - những người con sinh ra từ những miền quê yêu dấu, lớn lên trong mạch nguồn dân ca Việt Nam như bầu sữa nuôi lớn những tâm hồn. Họ - đã yêu Tổ quốc với tình yêu lớn lao và thiết thực: “Ôi Tổ quốc, ta yêu như máu thịt/ Như mẹ cha ta, như vợ như chồng/ Ôi Tổ quốc, nếu cần, ta chết/ Cho mỗi ngôi nhà, ngọn núi, dòng sông...” (Chế Lan Viên). Họ - là sự tiếp nối thế hệ: “Lớp cha trước, lớp con sau/ Đã thành đồng chí, chung câu quân hành” (Tố Hữu). Họ - những người phơi phới tuổi xuân: “Đường ra trận mùa này đẹp lắm/ Trường Sơn Đông nhớ Trường Sơn Tây” (Phạm Tiến Duật). Họ - ra trận với tư thế: “Nhắm thẳng quân thù mà bắn” hay: “Cuộc đời đẹp nhất là trận tuyến đánh quân thù”. Những người lính ấy ra trận mang theo tình cảm cả một hậu phương lớn: “Chiến dịch này ăn cơm không phải độn/ Mừng thì mừng mà thương mẹ biết bao nhiêu” (Hữu Thỉnh). Người “Mẹ Việt Nam Anh hùng” đã sinh ra, nuôi nấng và truyền cho họ sức mạnh thần kỳ - sức mạnh ấy là nội lực tiềm tàng của cả cội nguồn trầm tích lịch sử. Sức mạnh ấy đã làm nên vẻ đẹp lý tưởng của “Anh bộ đội Cụ Hồ”. Họ ra trận, có Bác bên mình “Bác vẫn cùng chúng cháu hành quân”. Bác lên non quan sát trận địa, Bác ra tận chiến hào đến từng khẩu đội phòng không tặng quà cho chiến sỹ. Tấm huy hiệu in hình Bác là một phần thưởng vinh dự lớn lao, phập phồng trên áo ngực nơi có trái tim người lính hát mãi khúc quân hành: “Đời mình là một khúc quân hành/ Đời mình là bài ca chiến sĩ” (Diệp Minh Truyền).
 
Từ cánh rừng năm ấy, những người lính đã đến với bao cánh rừng khác, với những cơn sốt rét, với chót vót đỉnh Trường Sơn sương mù bao phủ, với “bầu trời vuông” là mái tăng: “Thắng rồi - trận đánh thọc sâu/ Lại về với mái tăng - bầu trời vuông” (Nguyễn Duy). Những cánh rừng họ đi qua in dấu gậy Trường Sơn bằng tre ngà quê hương, dấu gậy mang tầm vóc Thánh Gióng. Và dấu võng bạt buộc lên thân cây lại nhớ sao tiếng võng tre quê nhà: “Nằm trên võng thèm nghe tiếng võng” (Hữu Thỉnh). Họ đã qua bao cánh rừng với một màu xanh quân phục, màu xanh cỏ úa. Đó là màu xanh của sự sống, của hy vọng, màu xanh của lúa mạ đồng quê. Màu xanh ấy ôm hình hài người lính, tâm hồn người lính là màu xanh lá của cánh rừng bất tận, của biển xanh sóng vỗ. Đó là màu xanh của áo trấn thủ với 36 đường may như những chiến hào đánh lấn làm nên chiến thắng Điện Biên Phủ chấn động địa cầu. Màu xanh quân phục ấy từ những cánh rừng Trường Sơn tràn về thành phố làm nên đại thắng mùa xuân 1975 lịch sử. 
 
Từ cánh rừng năm ấy, lịch sử đã sang trang mới. Những người lính lại hát tiếp khúc quân hành lên biên cương Tổ quốc ra với đảo khơi xa. Màu xanh áo lính chính là sắc màu của niềm tin, là lá chắn vững chãi đến những nơi gian khó nhất không chỉ trong chiến tranh mà cả trong thời bình chiến đấu với thiên nhiên khắc nghiệt với bão lụt thiên tai. Ở đâu cũng ngời lên vẻ đẹp tinh thần quả cảm với một tâm hồn lý tưởng cao đẹp khi mà họ đã xác định: “Chúng tôi đã đi không tiếc đời mình/ Những tuổi hai mươi làm sao không tiếc/ Nhưng ai cũng tiếc tuổi hai mươi thì còn chi Tổ quốc/ Cỏ sắc mà ấm quá, phải không em...” (Thanh Thảo). Vâng, màu xanh quân phục từ cánh rừng năm ấy như màu cỏ sắc và ấm, thắm tươi nồng hậu và bất diệt...
 
Tùy bút: NGUYỄN NGỌC PHÚ

Báo Lâm Đồng