Góp ý dự thảo Bộ luật Hình sự (sửa đổi): Phải tạo sự thống nhất trong áp dụng luật

22/09/2015 08:46 AM


Chính sách BHXH, BHYT, BH thất nghiệp đang là đối tượng xâm hại của tội phạm kinh tế và tham nhũng. Do đó, cần phải thực hiện tốt chức năng giáo dục, phòng ngừa, răn đe và tạo sự thống nhất áp dụng Bộ luật Hình sự trong việc điều tra, xét xử những hành vi gian lận, tham nhũng liên quan đến chính sách này…

BHXH, BHYT được xác định là trụ cột chính trong hệ thống an sinh xã hội, phạm vi bao phủ rộng, tác động trực tiếp đến quyền lợi của trên 70% dân số tham gia BHYT và trên 12 triệu NLĐ tham gia BHXH, BH thất nghiệp, nhất là số kinh phí chi trả thường xuyên cho đối tượng rất lớn và phức tạp. Đặc biệt, trong  giai đoạn hiện nay, ngành BHXH đang thực hiện cải cách TTHC theo hướng đơn giản hoá, rút ngắn quy trình, thời gian đăng ký tham gia và giải quyết các chế độ; cũng như tạo điều kiện để đối tượng được thụ hưởng chế độ một cách nhanh nhất, thuận lợi nhất. Vì vậy, chính sách BHXH, BHYT, BH thất nghiệp đang là đối tượng xâm hại của tội phạm kinh tế và tội phạm tham nhũng.

Để thực hiện tốt chức năng giáo dục, phòng ngừa, răn đe và tạo sự thống nhất áp dụng Bộ luật Hình sự trong việc điều tra, xét xử những hành vi gian lận, tham nhũng liên quan đến lĩnh vực BHXH, tôi đề nghị điều chỉnh một số nội dụng trong các Điều 218, 219 của dự thảo Bộ luật Hình sự (sửa đổi) như sau:

Thứ nhất, đối với Điều 218 (tội gian lận BHXH, BH thất nghiệp): Theo tôi, tiền BHXH, BH thất nghiệp (nêu trong dự thảo) là tài sản của Nhà nước, vì quỹ BHXH được Nhà nước bảo hộ (quy định tại Khoản 3, Điều 6, Luật BHXH năm 2014). Vì vậy, khoản tiền này phải được pháp luật bảo vệ như tài sản của Nhà nước; những hành vi chiếm đoạt, gây thiệt hại đến nguồn tiền phải bị trừng trị ngang bằng như hành vi chiếm đoạt tài sản Nhà nước.

Qua nghiên cứu, tôi nhận thấy, trong dự thảo luật còn có sự mâu thuẫn, bất bình đẳng về chế tài đối với hành vi vi phạm pháp luật hình sự quy định tại Điều 218 với chế tài đối với hành vi vi phạm pháp luật hình sự quy định tại Điều 366 (tội tham ô tài sản), Điều 368 (tội lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản) và Điều 369 (tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ). Đơn cử: Tại các Điều 366, 368, 369 (quy định về các tội tham nhũng) đã có quy định về hành vi “lợi dụng chức vụ, quyền hạn” để phạm tội, nhưng tại Điểm c, Khoản 2, Điều 218 lại quy định thêm hành vi: “Lợi dụng chức vụ, quyền hạn” chiếm đoạt tiền BHXH, BH thất nghiệp.

Mặc dù cùng là hành vi “lợi dụng chức vụ, quyền hạn” để chiếm đoạt tài sản, nhưng chế tài tại Điều 218 và các Điều 366, 368, 369 lại có sự bất bình đẳng với nhau. Theo đó, Điều 218 quy định, nếu lợi dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tiền BHXH từ 20.000.000 đồng đến dưới 100.000.000 đồng mới bị truy cứu trách nhiệm hình sự; còn chế tài chỉ là phạt tiền từ 3 lần đến 5 lần số tiền chiếm đoạt hoặc phạt tù từ 1 năm đến 5 năm. Điều này cho thấy, tuy số tiền chiếm đoạt lớn, nhưng theo chế tài chỉ bị phạt tiền hoặc phạt tù từ 1 năm đến 5 năm; dẫn đến việc nếu có hành vi chiếm đoạt tiền BHXH, BH thất nghiệp dưới 20.000.000 đồng thì chỉ bị xử lý hành chính. Trong khi đó, theo các Điều 366, 368 và 369, chỉ cần chiếm đoạt từ 2.000.000 đồng trở lên hoặc dưới 2.000.000 đồng nhưng thuộc các trường hợp như gây hậu quả nghiêm trọng, đã bị xử lý kỷ luật về hành vi này mà còn vi phạm… thì sẽ bị phạt cải tạo không giam giữ đến 3 năm hoặc phạt tù từ 2 năm đến 7 năm.

Qua đó cho thấy, hành vi chiếm đoạt tiền BHXH, BH thất nghiệp chỉ bị xử “nhẹ nhàng” hơn việc chiếm đoạt tài sản của Nhà nước, nên không đủ sức răn đe, phòng ngừa, thậm chí gây phức tạp cho quá trình điều tra, xét xử. Vì vậy, theo tôi, dự thảo luật nên bỏ Điểm c, Khoản 2, Điều 218 để áp dụng theo các Điều 366, 368, 369.

Thứ hai, đối với Điều 219 (tội gian lận BHYT): Tôi thống nhất cao với quy định tại điều này. Tuy nhiên, trong thực tiễn đã phát sinh hiện tượng người có hành vi gian lận BHYT, nhưng không chiếm đoạt số tiền đó cho mình. Trong khi đó, quỹ BHYT thất thoát lớn mà chưa có quy định của pháp luật hình sự để giáo dục, phòng ngừa, răn đe và xử lý.

Ví dụ: Cán bộ Nguyễn Văn A thuộc một BV có hành vi lập hồ sơ bệnh án kê tăng số lượng thuốc, vật tư y tế và chi phí khác (thực tế người bệnh không sử dụng), để rút tiền từ quỹ BHYT chuyển về cho BV này. Nếu việc này được thực hiện thường xuyên, liên tục, thì quỹ BHYT có thất thoát hàng trăm triệu đồng nhưng cũng không có cơ sở để truy cứu trách nhiệm hình sự đối với cán bộ Nguyễn Văn A. Vì, theo quy định tại Khoản 1, Điều 219, người thực hiện hành vi trái pháp luật phải chiếm đoạt tiền BHYT (theo Từ điển Tiếng Việt thì “Chiếm đoạt là biến của người khác thành của mình”); do đó hành vi của cán bộ Nguyễn Văn A không được coi là “chiếm đoạt” tiền BHYT, mà chỉ là hành vi làm thiệt hại đến quỹ BHYT.

Trong khi đó, thực tế hành vi trên đã và đang phát sinh khá phổ biến tại một số cơ sở KCB BHYT, gây thiệt hại khá lớn cho quỹ BHYT.

Để giáo dục, phòng ngừa, răn đe và xử lý đối với hành vi này, tôi đề nghị bổ sung vào Khoản 1, Điều 219 thêm cụm từ “hoặc làm thiệt hại”, cụ thể như sau: “Người nào thực hiện một trong các hành vi sau đây chiếm đoạt hoặc làm thiệt hại tiền BHYT từ 20.000.000 đồng đến dưới 100.000.000 đồng thì bị phạt tiền từ 2 lần đến 5 lần số tiền đã chiếm đoạt hoặc bị phạt cải tạo không giam giữ đến 3 năm…”.

(Trích ý kiến của ông Phạm Xuân Toan- Phó Trưởng ban Sổ, thẻ- BHXH Việt Nam)

Nguồn baobaohiemxahoi.vn