Phát triển BHYT thực hiện mục tiêu chiến lược chăm sóc và bảo vệ sức khỏe học sinh, sinh viên
01/09/2015 04:26 AM
Hiện tại bài viết chưa được cập nhật nội dung Âm thanh. Xin cảm ơn.
Là những chủ nhân tương lai của đất nước, sức khỏe của học sinh, sinh viên (HSSV) luôn là mối quan tâm của Đảng, Nhà nước và toàn xã hội. Cùng với việc hình thành chính sách BHYT ở nước ta, chính sách BHYT học sinh, sinh viên sớm được triển khai nhằm huy động nguồn tài chính chăm sóc và bảo vệ sức khỏe cho HSSV ngay tại nhà trường, góp phần thực hiện mục tiêu giáo dục toàn diện con người của Đảng và Nhà nước ta. Nhân dịp bước vào năm học mới 2015 – 2016, PGS,TS. Phạm Lê Tuấn, Thứ trưởng Bộ Y tế dành cho phóng viên Tạp chí BHXH cuộc trao đổi phỏng vấn.
Chính sách BHYT học sinh, sinh viên ra đời và chính thức được triển khai từ năm học 1994-1995 đến nay đã được 20 năm và đã góp phần tích cực vào sự nghiệp chăm sóc và bảo vệ sức khỏe thế hệ trẻ Việt Nam ngay từ khi các em còn ngồi trên ghế nhà trường. Xin được biết ý kiến đánh giá của Thứ trưởng về vai trò và hiệu quả của BHYT với công tác chăm sóc và bảo vệ sức khỏe học sinh, sinh viên?
PGS, TS. Phạm Lê Tuấn: HSSV là thế hệ tương lai của đất nước. Vì vậy, chăm lo sức khỏe, đảm bảo để các em phát triển khỏe mạnh về thể chất, tinh thần là một trong những ưu tiên hàng đầu trong chiến lược chăm sóc, bảo vệ và nâng cao sức khỏe nhân dân. Thực tiễn 20 năm triển khai BHYT học sinh, sinh viên ở nước ta cho thấy, BHYT học sinh, sinh viên là một giải pháp cơ bản để chăm sóc sức khỏe cho HSSV. Đây là sự kết hợp toàn diện các yêu cầu của công tác bảo vệ, chăm sóc sức khỏe cho HSSV, từ việc chăm lo sức khỏe ban đầu tại y tế trường học (YTTH) đến khám, chữa bệnh tại các cơ sở y tế khi rủi ro, ốm đau phải nằm viện. Với trên 22 triệu HSSV, tương đương gần 1/4 dân số, Ngành Giáo dục và Đào tạo đang đóng vai trò quan trọng trong giáo dục, rèn luyện, chăm sóc sức khỏe (CSSK) trẻ em, thanh thiếu niên thông qua hệ thống YTTH. Làm tốt công tác CSSK cho HSSV là góp phần xây dựng cộng đồng dân số khỏe mạnh, cung cấp nguồn nhân lực có chất lượng cao phục vụ cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Để các nhà trường thực hiện nhiệm vụ CSSK ban đầu cho HSSV, ngay từ rất sớm, được sự chỉ đạo của Chính phủ, liên bộ Giáo dục và Đào tạo và Bộ Y tế đã quan tâm chỉ đạo các nhà trường và y tế cơ sở phối hợp triển khai y tế học đường. Tuy nhiên, ở thời gian đầu, do nguồn kinh phí từ ngân sách nhà nước cấp cho y tế học đường hết sức hạn hẹp nên chưa thể hình thành mạng lưới YTTH riêng mà vẫn phụ thuộc vào y tế cơ sở. Y tế cơ sở cùng một lúc phải thực hiện quá nhiều chương trình y tế nên cũng khó có sự quan tâm đầy đủ đến y tế học đường. Do vậy, YTTH vẫn còn là một khoảng trống. Phải đến năm học 1994-1995, khi chính sách BHYT học sinh, sinh viên chính thức được triển khai, với quy định dành một tỷ lệ trích lại nhất định từ nguồn thu BHYT phục vụ phát triển YTTH, cùng với nguồn ngân sách nhà nước thì Quỹ BHYT là nguồn tài chính chủ yếu với tỷ trọng trên 80% kinh phí của hoạt động YTTH hiện nay. Số kinh phí từ Quỹ BHYT dành cho YTTH tăng dần qua các năm học. Nếu như ở năm học 2006-2007, con số này mới chỉ là trên 75 tỷ đồng thì đến năm học 2013-2014 lên tới khoảng 441 tỷ đồng và năm học 2014-2015, con số này là trên 500 tỷ đồng, tăng 6,6 lần so với năm học 2006-2007. Mạng lưới YTTH từ khoảng trắng đã dần được củng cố và hoàn thiện. Đặc biệt sau khi Thủ tướng Chính phủ ban hành Chỉ thị số 23/CT-TTg ngày 12/7/2006 về tăng cường công tác y tế trong các trường học và xác định phát triển BHYT học sinh, sinh viên là một trong những giải pháp quan trọng để tạo nguồn tài chính phát triển YTTH thì công tác BHYT học sinh, sinh viên và YTTH đã có sự tăng trưởng khá nhanh. Sự phát triển YTTH tăng tỷ lệ thuận với độ bao phủ BHYT học sinh, sinh viên, cụ thể, nếu như ở năm học 2006-2007, cả nước có chưa đầy 45% HSSV tham gia BHYT thì đến hết năm học 2014-2015, cả nước đã có trên 85% HSSV tham gia BHYT. Số liệu thống kê về YTTH và cán bộ làm công tác y tế nhà trường cũng có sự tăng trưởng tương ứng, cụ thể: số cán bộ chuyên trách công tác YTTH tăng từ 17,38% (năm 2006) lên 75% (năm 2014); tỷ lệ trường có phòng y tế đã tăng từ 44,79% (năm 2006) lên 82,54%, số trường đào tạo có trạm y tế tăng từ 55,9% lên 70,3%; một số trạm y tế còn phát triển trở thành trung tâm y tế chăm sóc sức khỏe. Các trường đại học y còn có cả bệnh viện thực hành, không chỉ thực hiện tốt công tác chăm sóc sức khỏe ban đầu cho HSSV mà còn tham gia khám, chữa bệnh BHYT. Với nguồn kinh phí từ Quỹ BHYT, hệ thống YTTH được củng cố và phát triển do được bổ sung trang thiết bị, sổ theo dõi sức khỏe, vật tư và thuốc thiết yếu, xử trí chấn thương, tai nạn, tăng cường các hoạt động giáo dục nâng cao sức khỏe, phòng chống các bệnh truyền nhiễm, các bệnh không lây nhiễm, các bệnh học đường. Nguồn kinh phí từ Quỹ BHYT cho công tác chăm sóc sức khỏe HSSV đang ngày càng trở thành nguồn tài chính quan trọng, chủ yếu phát triển YTTH, phát huy được hiệu quả của hoạt động chăm sóc sức khỏe ban đầu, vừa giảm tỷ lệ mắc bệnh, vừa xử lý kịp thời các trường hợp mắc bệnh, và đặc biệt là có điều kiện để nâng cao sức khỏe HSSV. Có thể thấy, nguồn kinh phí từ Quỹ BHYT học sinh, sinh viên đã góp phần giảm gánh nặng chi từ ngân sách nhà nước cho YTTH, bên cạnh đó, do có nguồn kinh phí ổn định để hoạt động, YTTH đã đảm trách khá tốt nhiệm vụ chăm sóc sức khỏe ban đầu cho HSSV tại nhà trường. HSSV được YTTH quản lý sức khỏe, sơ cấp cứu, xử trí các tai nạn, thương tích vốn hay xảy ra ở lứa tuổi học đường. Ngoài ra, HSSV tham gia BHYT còn có điều kiện tiếp cận với các dịch vụ y tế kịp thời, có chất lượng tại tất cả các cơ sở khám, chữa bệnh trong cả nước với phạm vi quyền lợi ngày càng được mở rộng do Quỹ BHYT chi trả chi phí.
Có hiệu lực từ 01/01/2015, đến nay Luật Sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật BHYT đã cho thấy những tác động tích cực với công tác khám, chữa bệnh cho các nhóm đối tượng tham gia. Xin Thứ trưởng cho biết ý kiến về tác động của Luật mới tới việc tổ chức công tác chăm sóc sức khoẻ ban đầu tại YTTH và chất lượng, hiệu quả khám, chữa bệnh cho đối tượng HSSV?
PGS, TS. Phạm Lê Tuấn: Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật BHYT có hiệu lực từ 01/01/2015 - ở thời điểm giữa năm học 2014-2015 và thời gian đến nay chưa phải là dài. Song, với những thành quả đã đạt được khi triển khai BHYT học sinh, sinh viên theo Luật BHYT từ năm 2009 đến nay, những quy định mới của Luật chắc chắn sẽ đem lại hiệu quả tốt hơn trong công tác YTTH, chăm sóc sức khỏe HSSV cũng như nhiều đối tượng tham gia BHYT khác. Với quy định mới, việc tham gia BHYT là yêu cầu bắt buộc, đây là cơ sở pháp lý quan trọng để thúc đẩy gia tăng tỷ lệ bao phủ BHYT tiến tới BHYT toàn dân. Đặc biệt là việc hoàn thành tỷ lệ 100% HSSV tham gia BHYT vào năm học 2015-2016 theo Chỉ thị của Thủ tướng Chính phủ.
Một số kết quả ban đầu cho thấy tác động của Luật đối với công tác YTTH là cơ sở để khẳng định xu thế phát triển, đó là: Hệ thống YTTH ở nhiều địa phương đã được kiện toàn và phát triển với cách thức, quy trình phối hợp hoạt động chặt chẽ, năng lực cán bộ YTTH được nâng cao; Điều kiện học tập và vệ sinh được cải thiện đáng kể với 78% số trường học có đủ nước sinh hoạt, 83% số trường có đủ nước uống, 82% có nhà tiêu hợp vệ sinh, 62% số trường có bếp ăn đạt tiêu chuẩn an toàn thực phẩm, các loại dịch bệnh giảm nhiều và không có dịch lớn xảy ra; Công tác quản lý sức khỏe học sinh bằng hồ sơ sức khỏe có xu hướng tăng; Các tài liệu chuyên môn có chất lượng, cập nhật kiến thức được phổ biến kịp thời; Kiến thức phòng chống bệnh tật của học sinh được nâng cao, gần 80% học sinh (thống kê năm 2014) đã được truyền thông về biện pháp phòng bệnh, tăng 67% so với năm 2010; Nhiều địa phương đã nâng cao năng lực CSSK ban đầu cho HSSV thông qua các cơ sở y tế trên địa bàn như trạm y tế xã, trung tâm y tế huyện.
Không chỉ có chất lượng hoạt động YTTH, chăm sóc sức khỏe ban đầu được nâng cao mà quyền lợi BHYT đối với HSSV cũng như các đối tượng khác được mở rộng về phạm vi thể hiện trên các phương diện như: sự thuận lợi trong tiếp cận cơ sở y tế; người nghèo, bao gồm cả HSSV thuộc hộ nghèo không phải cùng chi trả chi phí KCB, người thuộc hộ cận nghèo chỉ phải cùng chi trả 5% chi phí; các dịch vụ kỹ thuật trong khám, chữa bệnh thường xuyên được bổ sung theo sự phát triển của khoa học và công nghệ cũng như sự thay đổi về mô hình bệnh tật.
Về công tác quản lý, hiện nay, Bộ Y tế đang phối hợp với BHXH Việt Nam và các đơn vị có liên quan triển khai công tác tin học hóa quản lý BHYT, thực hiện quản lý thẻ BHYT điện tử có ảnh. Hoàn thành được mục tiêu này sẽ mang lại lợi ích đặc biệt rõ rệt trong việc khám, chữa bệnh BHYT của HSSV, vì đây là đối tượng có số lượng lớn chưa được cấp giấy tờ tùy thân có ảnh.
Xét trên phương diện xã hội, khi HSSV tham gia BHYT sẽ tạo sự yên tâm cho chính bản thân các em, cha mẹ và gia đình nếu không may xảy ra tai nạn, chấn thương, bệnh tật. Các nhà trường cũng yên tâm trong quản lý sức khỏe HSSV có thêm cơ hội, thêm điều kiện để nâng cao chất lượng dạy và học. Thực hiện BHYT đối với HSSV không chỉ là quyền lợi về sức khỏe đối với các em, mà còn là một cách thức giáo dục các em về trách nhiệm xã hội trong công tác bảo vệ, chăm sóc sức khỏe cộng đồng, xây dựng tình đoàn kết, tương thân, tương ái.
Trong công tác chăm sóc và bảo vệ sức khoẻ cho HSSV, YTTH đóng vai trò quan trọng. Xin Thứ trưởng cho biết định hướng, chỉ đạo của Ngành Y tế về công tác này trong thời gian tới?
PGS-TS. Phạm Lê Tuấn: Sức khỏe của trẻ em, HSSV là yếu tố quyết định đến chất lượng nguồn nhân lực của đất nước nên việc đầu tư hợp lý cho công tác YTTH là yêu cầu cấp thiết. Chăm sóc sức khỏe ban đầu cho HSSV tại trường học phải đảm bảo tiếp cận toàn diện, có đủ cơ sở vật chất, môi trường xã hội lành mạnh, đủ điều kiện về nhân lực và vật lực, truyền thông giảm thiểu các nguy cơ sức khỏe giúp học sinh phát triển toàn diện về thể chất và tinh thần. Vì vậy, việc tiếp tục củng cố, phát triển hệ thống YTTH và chất lượng hoạt động YTTH cần được quan tâm và đầu tư đúng mức từ kinh phí nhà nước, từ Quỹ BHYT và từ sự tham gia của cộng đồng xã hội.
Để triển khai tốt công tác YTTH, cần đánh giá cụ thể thực trạng hệ thống YTTH, rà soát, sửa đổi, ban hành các văn bản quy phạm pháp luật, văn bản hướng dẫn hoạt động YTTH. Trong thời gian tới, để tiếp tục nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của YTTH trong công tác chăm sóc và bảo vệ sức khỏe cho HSSV, Bộ Y tế sẽ tiếp tục phối hợp với Bộ Giáo dục và Đào tạo và các ngành chức năng triển khai một số nhiệm vụ trọng tâm:- Khẩn trương ban hành Thông tư hướng dẫn về công tác YTTH và việc sử dụng nguồn kinh phí trích lại từ Quỹ BHYT cũng như nguồn đầu tư từ ngân sách và các nguồn xã hội hóa khác cho công tác YTTH.
- Chuẩn bị tổng kết, đánh giá 10 năm thực hiện Chỉ thị số 23/CT-TTg ngày 12/7/2006 của Thủ tướng Chính phủ về tăng cường công tác y tế trong các trường học. Đặc biệt là tổng kết, đánh giá những tác động của BHYT học sinh, sinh viên đối với sự phát triển y tế nhà trường.
- Chỉ đạo các nhà trường phối hợp với cơ quan quản lý nhà nước về y tế ở cơ sở củng cố việc quản lý, chăm sóc sức khỏe ban đầu đối với HSSV thông qua mô hình phù hợp để đảm bảo hiệu quả, trong điều kiện nhiều cơ sở chưa tổ chức được bộ phận YTTH theo các điều kiện chuẩn đã được quy định. Ví dụ như việc tổ chức hệ thống YTTH theo cụm trường, hoặc sự tham gia phối hợp của y tế tuyến cơ sở với các nhà trường. Trong công tác chuyên môn, cần bám sát nhu cầu giáo dục thay đổi hành vi sức khỏe, giáo dục giới tính và sức khỏe sinh sản, phòng chống tai nạn thương tích. Mỗi nhà trường phải có kế hoạch cụ thể hàng năm, xác định cơ chế phối hợp để thực hiện.
- Duy trì và phát triển đội ngũ cán bộ y tế ở mỗi trường hoặc cụm trường và có kế hoạch đào tạo chuyên môn cho đội ngũ này cũng như đảm bảo chế độ thu hút, động viên cán bộ y tế công tác tại các nhà trường. Cán bộ y tế trong trường học là đầu mối kết nối với y tế cơ sở để triển khai các hoạt động bảo vệ, chăm sóc sức khỏe học sinh trong các nhà trường, trong khi đó hiện nay mới có 30.311/ 40. 493 (75%) cơ sở mầm non và phổ thông có cán bộ y tế và trình độ chuyên môn không đồng đều. Sự thiếu hụt về số lượng và hạn chế về chất lượng cán bộ y tế (nhiều trường hợp là viên chức kiêm nhiệm) ảnh hưởng đến chất lượng YTTH và không tận dụng được nguồn Quỹ BHYT cho công tác này theo quy định. Vì vậy phát triển, đào tạo, bồi dưỡng cũng như có chế độ thu hút đội ngũ cán bộ YTTH là vấn đề cần quan tâm.
- Kinh phí dành cho CSSK ban đầu, phòng chống dịch bệnh là rất lớn, do vậy việc thực hiện 100% HSSV tham gia BHYT có ý nghĩa hết sức quan trọng. Bên cạnh đó, để nâng cao chất lượng công tác chăm sóc sức khỏe HSSV, cần tăng cường đầu tư từ ngân sách nhà nước, cùng với huy động các nguồn lực khác./.
Nguồn TC BHXH
Tham gia BHXH - Trọn vòng an sinh
Tham Gia BHXH tự nguyện ngay hôm nay - An tâm cho ...
Quyền lợi của người dân khi tham gia BHXH tự ...
Sử Dụng CCCD Gắn Chip Trong Khám Chữa Bệnh BHYT