Số người thất nghiệp dài hạn tăng gấp đôi sau 5 năm

12/11/2013 09:32 AM


Thất nghiệp từ một năm trở lên được gọi là thất nghiệp dài hạn. Thất nghiệp dài hạn hiện chiếm hơn 1/3 số người thất nghiệp ở những nước phát triển.


Theo số liệu từ Viện chính sách của OECD, từ sau khủng hoảng tài chính, số người thất nghiệp dài hạn đã tăng gấp đôi, lên đến gần 17 triệu người. Điển hình như ở Tây Ban Nha, một con số đáng kinh ngạc, tới 3 triệu người thất nghiệp dài hạn. Mỹ cũng có số người thất nghiệp dài hạn tương đương nhưng lực lượng lao động ở Mỹ lớn hơn, nên tỷ lệ thất nghiệp dài hạn thấp hơn đáng kể so với Tây Ba Nha. Thất nghiệp trong thời gian dài làm suy giảm kiến thức và kỹ năng cần thiết cho công việc. Những người thất nghiệp lâu tâm lý thường dễ chán nản, vì thế những người sử dụng lao động ít khi thuê những người này. Tuy nhiên, một vài nước ở Châu Âu có dấu hiệu giảm tỷ lệ thất nghiệp dài hạn. Ở Đức, nhờ sự phục hồi kinh tế và cải cách thị trường lao động mà số người thất nghiệp giảm gần 1 triệu người so với hồi cuối năm 2007. Hay như Thụy Sỹ, nơi mà tỷ lệ thất nghiệp chỉ trên 4%, nhiều người sống dựa vào trợ cấp thất nghiệp cũng đã tìm được việc. Dù thế nào đi nữa, tỷ lệ thất nghiệp dài hạn cao và tăng nhanh ở hầu hết các nước OECD là mối đe dọa nghiêm trọng với sự phát triển kinh tế.

Bên cạnh đó, một kết quả nghiên cứu mới của Công ty tuyển dụng toàn cầu Hay PLC cho biết các nước phát triển trong đó có Canada, Nhật Bản, Mỹ, Đức và Thụy Điển, đang phải đối mặt với tình trạng thiếu hụt đội ngũ lao động lành nghề. Nghiên cứu trên dựa vào khảo sát về vấn đề thiếu lao động có tay nghề tại 30 quốc gia phát triển trên thế giới. Việc thiếu lao động lành nghề không trực tiếp liên quan đến tình hình kinh tế của bất kỳ nước nào, mà thường liên hệ chặt chẽ hơn với chính sách của chính phủ bên cạnh tính hiệu quả của các cơ sở giáo dục trong việc cung cấp những kỹ năng cần thiết cho sinh viên và mức độ hiệu quả đào tạo của chủ lao động đối với giới lao động. Hay PLC nhận định tình trạng này sẽ trầm trọng hơn khi kinh tế toàn cầu phục hồi. Giám đốc điều hành của Hays PLC Alistair Cox cho rằng có nhiều mâu thuẫn trong hệ thống khi mà thị trường việc làm khởi sắc do kinh tế phục hồi nhưng các nước này lại không đủ lao động lành nghề trong các ngành thích hợp và vào đúng thời điểm.

Xếp thứ 9 trong danh sách về mức độ thiếu lao động lành nghề, xếp trên Nhật Bản, Mỹ, Đức, Thụy Điển và một số quốc gia khác, Canada bắt đầu có những dấu hiệu đáng lo ngại khi tồn tại khoảng cách giữa người lao động có nghề và các ngành đang "khát" lao động. Nhiều công việc đang thiếu lao động tại Canada liên quan đến ngành xây dựng đang bùng nổ. Trong khi đó, công nhân khai thác tài nguyên, kỹ sư và các nhà lập trình công nghệ di động là những vị trí mà thị trường việc làm tại Canada đang tìm kiếm. Không chỉ vậy, một khó khăn trong việc giải quyết vấn đề thiếu hụt lao động là do các tổ chức giáo dục Canada mất nhiều thời gian trong quá trình tái chuyển hướng các nguồn lực của họ sang đào tạo những ngành nghề có triển vọng, trong khi các quy định nhập cư của chính phủ lại dẫn tới tình trạng nhập cư ồ ạt những người không có nghề. Các nước thành công nhất trong việc giải quyết vấn đề thiếu lao động là những quốc gia có các hệ thống di trú linh hoạt, nhằm vào những nghề cụ thể. Bên cạnh đó, chính sách nhập cư cần phân biệt giữa những lao động trình độ cao, với những lao động trình độ thấp hơn- tầng lớp thường trở thành gánh nặng cho nền kinh tế.

Theo TTXVN/Vietnamplus